Ỷ Lan Hoàng Hậu Nhà Thanh

Ỷ Lan Hoàng Hậu Nhà Thanh

Nguyên phi - Hoàng thái hậu Ỷ Lan là người phụ nữ có công lớn trong việc “trị quốc” khi 2 lần thay chồng là vua Lý Thánh Tông, thay con là vua Lý Nhân Tông buông rèm nhiếp chính. Bà được người đời tôn vinh là “Quan Âm nữ” và được Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam đề nghị UNESCO công nhận là “Người phụ nữ huyền thoại”. Bà có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tiếp nối cũng như phát huy các giá trị Phật giáo thời Lý qua việc truyền bá Phật giáo, đúc chông và dựng chùa trên nhiều vùng thắng cảnh của cả nước núi Tiên Du (Bắc Ninh), An Lão (Kiến An)...

Nguyên phi - Hoàng thái hậu Ỷ Lan là người phụ nữ có công lớn trong việc “trị quốc” khi 2 lần thay chồng là vua Lý Thánh Tông, thay con là vua Lý Nhân Tông buông rèm nhiếp chính. Bà được người đời tôn vinh là “Quan Âm nữ” và được Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam đề nghị UNESCO công nhận là “Người phụ nữ huyền thoại”. Bà có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tiếp nối cũng như phát huy các giá trị Phật giáo thời Lý qua việc truyền bá Phật giáo, đúc chông và dựng chùa trên nhiều vùng thắng cảnh của cả nước núi Tiên Du (Bắc Ninh), An Lão (Kiến An)...

Thê thiếp của Hoàng tử – Thái tử

Thê thiếp chính thức của các Hoàng tử (A-ka) được gọi là Phúc tấn (福晋). Vợ cả là Đích Phúc tấn (嫡福晋), còn các vợ lẽ (được phong danh phận) là Trắc Phúc tấn (侧福晋). Đối với Thái tử thì thê (vợ cả) là Thái tử phi, còn các thiếp vẫn là danh phận Trắc phúc tấn, nhưng địa vị cao hơn các Phúc tấn của các Hoàng Tử khác. Phúc tấn là một danh hiệu của quý tộc nhà Thanh, được hành lễ bởi những người thân phận thấp hơn và nhận bổng lộc hàng tháng, vì vậy chỉ được sắc phong bởi Hoàng đế. Dù là Trắc Phúc tấn cũng thường xuất thân từ gia đình quý tộc Bát Kỳ. Các tiểu thiếp khác của Hoàng tử nếu xuất thân thấp kém, không được Hoàng đế sắc phong thì không được gọi là Phúc tấn. Dưới Phúc tấn còn có các Cách cách và Thị thiếp.

Là những người được bán hay là tuyển chọn để vào Tử Cấm Thành hầu hạ Hoàng đế và các Chủ tử trong cung.

Nếu là những người tuyển chọn thì sẽ có bổng lộc cao hơn vì được chọn lọc kỹ lưỡng để hầu hạ Hoàng đế, Thái hậu, Hoàng hậu và các chủ tử khác trong cung. Nếu những người vì hoàn cảnh mà bán vào trong cung thì sẽ làm việc tại các phòng, các ti trong Tử Cấm Thành.

Khác với các chủ nhân ở Hậu cung, Cung nữ đời nhà Thanh chỉ phải ở trong cung đến 25 tuổi là có thể xuất cung và sống như những người phụ nữ bình thường khác (lấy chồng, sinh con…). Cũng có những trường hợp Cung nữ tự nguyện ở trong cung cả đời, trở thành Cô cô trưởng quản Cung nữ hoặc nội quan, tổng quản của một cung.

Là em gái của vua hoặc các hoàng đế đời trước (Thiên đế), không có quyền hành nhất định trong cung. Xã hội phong kiến đương thời truyền miệng nhau rằng: “Quận chúa chỉ là người dựa hơi vua để làm sáng quyền lực của mình.”

Vào thời Hậu Hán và Đại Đường: Tài nhân được xem là các phi tần của vua, là các con gái của hành tỉnh chủ được đưa vào với mong muốn kết thân với vua nhằm trục quyền hưởng lợi. Tài nhân đứng sau Chiêu Nghi, Hoàng Phi, Hoàng Hậu, Thái Hậu,Thái Phi và Thiên Hậu. Không có quyền cai quản hậu cung. Nếu tài nhân được hoàng đế sủng ái thì tài nhân đó được phép ở bên cạnh hoàng đế để hầu hạ.

Vào một số triều đại khác thì tài nhân là danh hiệu cho các cung nữ trẻ nhất trong hậu cung. Tài nhân có nhiệm vụ tiếp đón các nhà vua trong hậu cung và các quan nghị sự khi trong cung có đại tiệc. Phần lớn các tài nhân đều ở lứa tuổi 13 trở lên.

Vào thời Tần Thủy Hoàng (nhà Tần): Tài nhân được xem như những người có tài năng, được đưa vào cung để đưa lời khuyên giúp vua quản lý đất nước.

Việc lựa chọn những phi tần đắc sủng chốn hậu cung dựa vào mẫu tộc bề thế chống lưng phía sau không còn là chuyện hiếm trong lịch sử phong kiến Trung Quốc. Trên thực tế, khi một Hoàng đế lên ngôi sẽ có người mừng, kẻ ghen ghét. Nhiều Hoàng đế khi có cơ hội nắm giữ ngai vàng vẫn phải đối mặt với nhiều thế lực chống đối, luôn tìm cách lật đổ. Bởi vậy, việc có được một gia tộc nhà vợ hùng mạnh, Hoàng đế sẽ có thể củng cố quyền lực, ngồi vững vàng trên ngôi vị cửu ngũ chí tôn.

Để lựa chọn một phi tần đưa lên ngôi vị “mẫu nghi thiên hạ”, Hoàng đế phải nhìn vào gia thế của nhà vợ. Từ đó có thể rút ra rằng, phi tần nào có gia tộc hùng mạnh chống lưng thì ắt sẽ được ưu tiên phần nào trên con đường tranh sủng. Đối với những gia đình nhà vợ này, Hoàng đế năm phần nể trọng, năm phần lo sợ.

Cũng bởi được Hoàng đế sủng ái, gia tộc hiển hách, nắm trong tay nhiều quyền lực mà không ít người khi lên được ngôi vị đứng đầu hậu cung liền kéo bè kết phái, chèn ép người khác. Điều này khiến cho hậu cung dậy sóng, tạo nên nhiều áp lực cho Hoàng đế. Không dừng lại ở đó, khi thấy người nhà trở thành Hoàng hậu, nhiều mẫu tộc làm tới, lấn lướt làm lũng đoạn chính trường, gây hại cho quốc gia.

Bởi vậy, đến giai đoạn nhà Thanh, dù hôn nhân vẫn mang tính chính trị, ràng buộc, giúp đỡ lẫn nhau này vẫn tồn tại, song, bởi nhận thấy mặt hại của các mẫu tộc hùng mạnh mà rất nhiều đời Hoàng đế Mãn Thanh đều có xu hướng kết nạp nhiều phi tần chỉ thuần với mục đích duy trì nòi giống. Điều này giúp cho Hoàng gia vẫn có được con đàn cháu đống mà không phải vì quyền lực mà nể mặt bất cứ ai. Theo đó, họ sẽ chọn những nữ nhân có xuất thân trong sạch, nhưng mẫu tộc lại không có quá nhiều quyền lực trên chính trường.

Quý phi Diệp Hách Na Lạp thị (tức Từ Hi Thái hậu).

Các Hoàng đế triều Thanh nếu ân sủng một phi tần nào đó còn có thể nâng tước vị cho họ trở thành Hoàng hậu. Ưu điểm của những phi tần không có gia thế là họ sẽ công bằng nghiêm minh, không có sự thiên vị, hống hách, kết bè phái sau lưng Hoàng đế. Điều này giúp cho hậu cung sẽ yên bình. Bởi biết gia tộc của mình hoàn toàn mờ nhạt nên nếu một Hoàng hậu, phi tần nào đó đắc tội với Hoàng đế thì sẽ dễ gây ra họa diệt vong, ảnh hưởng gia đình.

Trong số những gia tộc cao quý thuộc dạng không có quyền lực nhiều trên chính trường, nhưng lại sản sinh ra nhiều Hoàng hậu, phi tần cho các đời Hoàng đế Thanh triều, nổi lên hai cái tên rất nổi bật: Nữu Hỗ Lộc thị và Na Lạp thị bao gồm Diệp Hách Na Lạp, Ô Lạt Na Lạp. Hai gia tộc nổi tiếng này đều thuộc Bát Kỳ Mãn Châu.

11 Hoàng hậu và hàng loạt phi tần

Nữu Hỗ Lộc thị xuất sinh nhiều Hoàng hậu, phi tần của nhà Thanh, với cả thảy 6 phi tần và 6 vị Hoàng hậu (bao gồm cả trường hợp được con trai sau khi lên ngôi hoàng đế truy phong cho mẹ mình).

Nữu Hỗ Lộc thị là một họ của người Nữ Chân rất phổ biến triều nhà Thanh. Độ phổ biến và nối tiếng của họ này được liệt vào một trong những dòng họ quý tộc Mãn Châu nổi tiếng dưới triều đại nhà Thanh.

Nữu Hỗ Lộc thị được cho là khởi nguồn từ vùng núi Trường Bạch, thuộc tỉnh Cát Lâm ngày nay, giữa hai con sông Tùng Hoa và Mẫu Đơn. Theo những ghi chép trong gia phả, ông tổ 6 đời Ngạch Diệc Đô, thành viên Nữu Hỗ Lộc thị nổi tiếng đầu tiên được ghi lại trong tài liệu lịch sử đời Thanh. Với sự hỗ trợ đắc lực của Ngạch Diệc Đô và thị tộc Nữu Hỗ Lộc, Nỗ Nhĩ Cáp Xích lần lượt thống nhất được các bộ tộc Nữ Chân để hình thành nhà nước Mãn Thanh.

Khi hệ thống Bát Kỳ ra đời, để tưởng thưởng cho lòng trung thành và công lao của Ngạch Diệc Đô, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã xếp Nữu Hỗ Lộc thị thuộc vào Tương Hoàng kỳ, trong nhóm Thượng Tam Kỳ, biến thị tộc này thành một trong những thị tộc có thế lực nhất trong Bát Kỳ. Đến thời cực thịnh của nhà Thanh, hầu như các kỳ trong Bát kỳ đều có các thành viên của Nữu Hỗ Lộc thị giữ những vị trí trọng yếu.

Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị - Hoàng hậu thứ hai của Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế và là mẹ của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế.

Dưới triều đại nhà Thanh, có tới 12 phi tần, Hoàng hậu nhà Thanh có xuất sinh từ gia tộc Nữu Hỗ Lộc thị. Triều đại Hoàng Thái Cực (Thanh Thái Tông): Thái Tông nguyên phi; Khang Hi (Thanh Thánh Tổ): Hiếu Chiêu Nhân hoàng hậu (kế hậu); Ôn Hy Quý phi (em gái Hiếu Chiêu Nhân hoàng hậu), Thánh Tổ Thứ phi; Ung Chính (Thanh Thế Tông): Hi Quý phi (mẫu thân của Càn Long, truy phong là Hiếu Thánh Hiến hoàng hậu); Gia Khánh (Thanh Nhân Tông): Hiếu Hòa Duệ hoàng hậu (kế hậu), Cung Thuận hoàng quý phi; Đạo Quang (Thanh Tuyên Tông): Hiếu Mục Thành hoàng hậu (là phúc tấn lúc Đạo Quang còn là hoàng tử, về sau truy phong hoàng hậu), Hiếu Toàn Thành hoàng hậu (kế hậu), Tường phi, Thành quý phi; Hàm Phong (Thanh Văn Tông): Hiếu Trinh Hiển hoàng hậu (kế hậu).

Còn với gia tộc Na Lạp thị thì họ có bao gồm 4 tộc nhỏ: Cáp Đạt Ná Lạp, Huy Phát Na Lạp, Ô Lạt Na Lạp và Diệp Hách Na Lạp. Người thuộc gia tộc này vốn có xuất thân và sinh sống tại khu vực Hải Tây, ngày nay là các vùng Cát Lâm, Hắc Long Giang, Liêu Ninh và Nội Mông Cổ.

Trong đó, hai tộc nhỏ là Ô Lạt Na Lạp và Diệp Hách Na Lạp là nổi tiếng nhất vì có nhiều nữ nhân giữ những vị trí cao quý trong hậu cung của nhiều đời Hoàng đế Thanh triều. Đặc biệt, hai trong bốn vị Đại Phúc Tấn đầu tiên của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích cũng thuộc hai gia tộc này. Và cả Từ Hy Thái hậu cũng có xuất thân từ tộc Diệp Hách Na Lạp.

Danh sách phi tần, Hoàng hậu nhà Thanh có xuất sinh từ gia tộc Na Lạp có Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Thanh Thái Tổ): Hiếu Từ Cao Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp Mạnh Cổ Triết Triết, Hiếu Liệt Vũ Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp A Ba Hợi (truy phong); Ung Chính (Thanh Thế Tông): Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị; Càn Long (Thanh Cao Tông): Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị, Thư phi Diệp Hách Na Lạp thị, Hòa phi Na Lạp thị (không rõ thuộc tộc nhánh nào trong Na Lạp thị); Hàm Phong (Thanh Văn Tông): Ý Quý phi Diệp Hách Na Lạp thị ( tức Từ Hi Thái Hậu, sau được truy phong thành Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu); Quang Tự (Thanh Đức Tông): Hiếu Định Cảnh Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị.

Tuy nhiên, khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích từng bước thống nhất người Nữ Chân xây dựng triều đại nhà Thanh thì các tộc Na Lạp đã phản đối kịch liệt vì họ được nhà Minh đối xử khá tốt. Mặt khác, họ không thích chiến tranh nên cố gắng thoả hiệp với Nỗ Nhĩ Cáp Xích bằng các cuộc hôn nhân chính trị với con gái của các chủ tộc.

Ngược lại, Nỗ Nhĩ Cáp Xích vẫn muốn khai chiến với Na Lạp thị. 3 trong 4 tộc nhỏ của Na Lạp thị là Cáp Đạt, Ô Lạt và Huy Phát lần lượt sụp đổ. Chỉ riêng có Diệp Hách Na Lạp chống cự quyết liệt vì là tộc lớn nhất và mạnh nhất, và còn do họ được sự tương trợ của nhà Minh. Nhưng rồi cuối cùng, vẫn không chống lại quyền lực quân sự quá lớn của Thanh Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích.